Cách Hà Nội 60km, làng nghề Thủ Sỹ (Hưng Yên) là điểm đến lý tưởng để du khách trải nghiệm nét đẹp bình dị của làng quê và nghề đan đó, đan rọ truyền thống.
Cách Hà Nội chỉ 60km, làng nghề Thủ Sỹ ở huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên như một bức tranh thôn quê bình dị. Nơi đây, du khách được trải nghiệm nét độc đáo của nghề đan đó, đan rọ truyền thống, hòa mình vào khung cảnh làng quê yên bình, mộc mạc.
1. Giới thiệu về làng Thủ Sỹ
Cách Hà Nội khoảng 60km, xã Thủ Sỹ, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên mang vẻ đẹp làng quê Bắc bộ thuần túy. Những mái ngói thâm nâu, nếp nhà ba gian xưa cũ ẩn mình giữa lũy tre xanh tạo nên khung cảnh thanh bình, yên ả. Khám phá cuộc sống nơi đây, chúng tôi như lạc vào một thế giới đối lập hoàn toàn với nhịp sống đô thị. Những con đường làng đất gập ghềnh, những ngôi nhà nhỏ khiêm nhường mang đến cảm giác bình yên, thư thái.
Nghề đan đó ở Thủ Sỹ có lịch sử hơn 2 thế kỷ, được truyền lại từ đời này sang đời khác. Hai thôn Nội Lăng và Tất Viên là nơi nghề phát triển nhất, với khoảng 500 người dân theo nghề. Người dân Thủ Sỹ tự hào về nghề truyền thống của mình, từ những chiếc rọ tôm đến những sản phẩm thủ công tinh xảo. Truyền thuyết kể rằng, Thành hoàng Nguyễn Thị Huệ, người được thờ tại đình làng, chính là người đã mang nghề đan đó đến với Thủ Sỹ, góp phần tạo nên nét văn hóa đặc sắc của vùng đất này.
Hướng dẫn di chuyển đến làng Thủ Sỹ
Từ Hà Nội, bạn có thể dễ dàng di chuyển tới đây bằng cách xuất phát từ bến xe Mỹ Đình, đi theo đường vành đai 3 qua cầu Thanh Trì, sau đó rẽ vào đường 379 xuyên qua Ecopark. Tiếp tục đi thẳng khoảng 40km nữa là đến Hưng Yên. Cuối cùng, bạn theo đường 61 từ chợ Ba Hàng để đến làng nghề truyền thống ở thôn Tất Viên và thôn Nội Lăng.
3. Làng nghề đan đó 200 tuổi
Ghé thăm các gia đình trong thôn, dễ dàng bắt gặp hình ảnh các cụ ông, cụ bà nhàn nhã ngồi trước hiên, đôi bàn tay thoăn thoắt đan đó, rôm rả chuyện trò. Họ kể về một thời Thủ Sỹ xưa, khi mùa màng rảnh rỗi, nhà nào cũng đan đó. Tiếng chẻ tre, chẻ nứa vang vọng khắp làng, khoảng sân nhà nào cũng ngập tràn thân đó, nan tre và những chiếc đó thành phẩm. Còn khi mùa màng bận rộn, người dân sẽ tranh thủ đan vào buổi chiều tối, tạo nên một bức tranh làng quê thanh bình, rộn rã.
Những ngày đầu hè, khi công việc đồng áng tạm lắng, người dân làng quê lại rộn ràng với những buổi đan rọ, đan đó. Trước sân nhà hay dưới tán lá nhãn xanh mát, mọi người tụ họp, tiếng cười nói rôm rả hòa quyện cùng tiếng đan lát khéo léo. Không khí yên bình, thanh mát như chính hương vị của mùa hè.
Hàng xuất khẩu
Sản phẩm làm từ tre, nứa của Thủ Sỹ ngày càng được ưa chuộng, từ thị trường nội địa đến quốc tế. Du khách từ Ấn Độ, Đức, Mỹ đến đây đều bị thu hút bởi những chiếc đó độc đáo, đặt hàng với số lượng lớn. Nghề đan đó, vốn là nghề phụ, đã mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân. Trong những tháng nông nhàn, người già, phụ nữ, thanh niên trai tráng cùng nhau phơi nan, vót tre, đan đó, tạo nên một bức tranh làng nghề sinh động. 650.000 chiếc đó được bán ra mỗi năm, giúp người dân Thủ Sỹ tăng thêm 50% thu nhập, góp phần làm giàu cho quê hương.
Thủ Sỹ, với những cánh đồng chiêm trũng và mạng lưới kênh mương dày đặc, là nơi sản xuất ra hàng trăm ngàn sản phẩm thủ công mỗi năm, cung cấp cho các tỉnh lân cận như Hà Nam, Nam Định, Bắc Ninh… Trong số những loại sản phẩm đa dạng, có thể kể đến loại được hun màu nâu cánh gián với giá từ 30.000 – 40.000 đồng/chiếc và loại trắng với giá 20.000 đồng/chiếc. Mặc dù chỉ là nghề phụ trong những lúc nông nhàn, nghề đan đó lại mang đến 50% thu nhập cho người dân Thủ Sỹ, giúp họ có một cuộc sống ổn định. Cụ Bạc, một người dân địa phương, chia sẻ: “Các cụ ngày xưa đêm đan, sáng sớm mang ra chợ bán để nuôi con ăn học. Tôi cũng vậy. Bây giờ một tháng thu nhập được đôi triệu, cuộc sống đủ sinh hoạt. Nhờ cái đó này mà con cái trưởng thành.”
4. Nhà cụ Lương Sơn Bạc
Chúng tôi được người dân dẫn đến nhà cụ Lương Sơn Bạc, ngôi nhà cổ kính gần 200 năm tuổi, nơi chúng tôi có cơ hội chứng kiến tận mắt quá trình làm ra những sản phẩm độc đáo. Cụ Bạc, hơn 80 tuổi nhưng vẫn khỏe mạnh và minh mẫn, đã từng đi khắp nơi, từ Hà Nội vào đến thành phố Hồ Chí Minh, qua Mỹ, qua Đức để giới thiệu về nghề đan đó truyền thống. Trong căn nhà nhỏ, những bức ảnh lưu giữ dấu chân ông trên khắp thế giới. Cụ Bạc chia sẻ, người thợ phải chọn tre, nứa già mới đan được những chiếc đó bền đẹp. Kỹ thuật đan đó được xem là một kỳ công, đòi hỏi sự khéo léo và sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều công đoạn. Gia đình ông mỗi người một việc, người chẻ, người vót tre, nứa. Kỹ thuật đan đòi hỏi không chỉ sự khéo léo, tỉ mỉ để tạo ra những sản phẩm tinh tế, bền chặt mà còn cần sự kiên nhẫn, chăm chỉ và tình yêu nghề của người đan. Mỗi chiếc đó, chiếc rọ thành phẩm là sự kết tinh những giá trị làng nghề truyền thống và công sức lao động của người dân địa phương.
Làm sẵn nan tre, nứa là công đoạn đầu tiên. Tiếp theo là đan, công đoạn này đòi hỏi sự khéo léo. Đan hom miệng dễ nhất, đan cạp, vành miệng và kết thúc đuôi khó nhất. Chiếc đó có hình bầu dục, đuôi nhọn, miệng nhỏ tròn, nắp miệng là chiếc hom. Một người thợ lành nghề mất khoảng 60 phút để hoàn thành.
Cụ Bạc, người thợ già, chia sẻ: “Đan phải mượt mà, hun thẫm không cháy, 10 cái giống nhau. Nan phải chẻ phơi khô, nhúng vào nước vôi. Hun bằng rơm, lửa đều, không được bùng. Phải hun 3 lửa mới đẹp. Nghệ thuật hun rất khó, các cụ bà hun là đẹp nhất, tăng độ bền cho sản phẩm”.
Chiếc đó có hình dáng đặc trưng: bầu dục, đuôi nhọn, miệng nhỏ tròn, nắp miệng là chiếc hom. Nghệ nhân lành nghề mất khoảng 15-20 phút để hoàn thiện một chiếc. Quá trình đan đó đòi hỏi sự khéo léo, đan hom miệng dễ nhất, khó nhất là phần cạp, vành miệng và kết thúc đuôi. Trong các loại đó bắt cá, lừ bóng và đó ngồi hai cửa là khó nhất. Lừ bóng, được dùng để bắt cá nhỏ như rô, diếc, thia, chù, cấn, đòi hỏi nan nhỏ, trúc trưởng thành vừa cứng vừa dẻo để cá không lọt và đó bền. Các loại đó nằm, nơm, đăng, đáy đơn giản hơn. Khi hoàn thiện, đó được hong trên gác bếp, tăng độ bền cho sản phẩm.
Lòng hiếu khách Thủ Sỹ.
Người Thủ Sỹ hiếu khách vô cùng! Ngay khi đặt chân tới làng, chúng tôi được mọi người nhiệt tình hỏi thăm về nghề đan đó, rồi dẫn đến nhà cụ Lương Sơn Bạc. Cụ Lương đón tiếp chúng tôi nồng hậu, tận tay chỉ bảo những chiếc đó, chiếc rọ, niềm tự hào của làng nghề. Ai ai cũng tất bật đan, tay thoăn thoắt, nhanh nhẹn. Chúng tôi được các cụ chỉ bảo tỉ mẩn từng thao tác, từ cách luồn sợi cho khéo, cho nhanh đến bí quyết để tạo ra những sản phẩm chất lượng. Có cụ đã hơn 80 tuổi nhưng mắt vẫn tinh anh, tay vẫn nhanh nhẹn. Cụ tâm sự: “Gắn bó với việc đan đó từ năm lên 4, mấy chục năm rồi, làm mãi thành quen, không làm là thấy buồn, thấy thiếu nên không bỏ nghề được”. Cả căn nhà rộn rã tiếng cười, tiếng nói từ già tới trẻ, ai ai cũng rạng rỡ, không hề có chút mệt mỏi.
Ngôi nhà cổ
Ngôi nhà ba gian cổ kính của cụ Lương Sơn Bạc, từ sân vào bếp chất đầy những đó và rọ lớn, rọ bé, như một minh chứng cho nghề thủ công truyền thống đã gắn bó với gia đình cụ suốt nhiều thế hệ. Hai cô con gái lấy chồng xa nên cụ cũng lấy nghề làm niềm vui. Cụ bà Phạm Thị Nhài, vợ ông Bạc đã mất được hai năm rồi. Gian nhà cổ cũng là nơi đặt di ảnh, thờ tự bà, xung quanh là những chiếc đó được bà khéo léo tết. Ông bảo: “Ngày còn sống, bà làm đó khéo lắm, tay nhanh thoăn thoắt, ông yêu bà cũng là vì bà làm khéo quá.” Căn nhà đã trải qua 200 năm lịch sử, chứng kiến bao thăng trầm, biến cố nhưng vẫn đứng vững ở đây, gắn bó với nghề này, như một lời khẳng định cho giá trị của truyền thống và sự bền bỉ của tình yêu.
Xã hội phát triển, nghề cá thay đổi, nhưng nghề đan đó ở Thủ Sỹ vẫn giữ được nét truyền thống. Từ những chiếc đó, chiếc rọ đơn thuần, giờ đây, người dân nơi đây đã sáng tạo, biến chúng thành những sản phẩm mỹ thuật, nội thất độc đáo, mang đậm chất thôn quê. Một chuyến thăm Thủ Sỹ như đưa chúng ta lạc vào không gian xưa, được trò chuyện, tìm hiểu về một làng nghề lâu đời. Đây là trải nghiệm quý báu, giúp chúng ta tự hào về những nét đặc sắc của đất nước, sẵn sàng giới thiệu với bạn bè quốc tế.