Hà Tiên, vùng đất địa đầu Tây Nam, nổi tiếng với lịch sử gắn liền dòng họ Mạc. Nơi đây sở hữu nhiều thắng cảnh đẹp, được tổng trấn Mạc Thiên Tích ca ngợi trong thơ ca.
Hà Tiên, địa đầu phía Tây Nam tổ quốc, sở hữu lịch sử độc đáo gắn liền với dòng họ Mạc. Mảnh đất xinh đẹp này nổi tiếng với nhiều thắng cảnh, trong đó mười danh thắng được Mạc Thiên Tích, vị tổng trấn đời thứ hai tài hoa lỗi lạc, đưa vào thơ ca, lưu giữ cho đời sau.
Hà Tiên: Lãng khách lưu luyến.
Hà Tiên, vốn là đất Chân Lạp, được khai phá bởi Mạc Cửu, một người Hoa thời Minh bỏ quê hương khi người Mãn Châu lên ngôi. Được vua Chân Lạp cho phép, ông khai khẩn vùng đất này. Khi Chân Lạp suy yếu, Mạc Cửu lo sợ sự quấy nhiễu của người Xiêm La, đã quyết định dâng Hà Tiên cho chúa Nguyễn.
Mạc Cửu khai phá và xây dựng nên Hà Tiên, nhưng chính Mạc Thiên Tích là người biến vùng đất hoang vu ấy thành cảng thị phồn hoa, góp công sức lớn trong việc phát triển Hà Tiên. Ông không chỉ phát triển vùng đất Hà Tiên (bao gồm cả Kiên Giang và Cà Mau hiện nay) mà còn là người gây dựng nên vùng Trấn Giang (Cần Thơ ngày nay).
Lữ Phong say mê Hà Tiên, nhưng lòng tham của y lại rộng lớn hơn cả. Y khao khát chiếm trọn Mạc Thiên Tích, và cũng muốn chinh phục nhiều miền đất khác. Hà Tiên, với vẻ đẹp mê hoặc, chỉ là một điểm dừng chân trên hành trình rong ruổi bất tận của y, một báu vật bị lãng quên trong kho tàng của lòng tham.
Hà Tiên thập cảnh là 10 thắng cảnh nổi tiếng của Hà Tiên, được ca ngợi trong tập thơ “Hà Tiên thập vịnh” do Mạc Thiên Tích và các thành viên Tao đàn Chiêu Anh Các sáng tác. Mười danh thắng này bao gồm:
Núi Pháo Đài, ngay chân cầu Tô Châu hiện nay, chính là Kim Dự lan đào – hòn đảo xưa kia nằm ở cửa sông Giang Thành, nay đã hòa vào đất liền.
Bình San điệp thúy, nơi an nghỉ của dòng họ Mạc đất Hà Tiên, ẩn chứa vẻ đẹp thanh bình, yên tĩnh giữa núi non trùng điệp.
Tiếng chuông chùa Tiêu – chùa Tam Bảo, ngôi chùa được sắc tứ ở Hà Tiên, vang vọng báo tin Tiêu Tự thần chung.
Giang Thành đêm khuya, tiếng trống canh vang vọng, vọng về quá khứ của đồn Giang Thành xưa.
Thạch Động thôn vân, nơi mây luồn qua động, tạo nên khung cảnh mờ ảo, huyền bí. Thạch Động như nuốt mây, ẩn hiện giữa đất trời, khiến du khách say lòng trước vẻ đẹp kỳ ảo.
Châu Nham lạc lối, cò về núi ngọc, ẩn mình trong khung cảnh hùng vĩ của núi Đá Dựng, gần Thạch Động.
Ánh trăng soi sáng trên mặt hồ Đông Hồ, một khung cảnh thơ mộng và thanh bình.
Nam Phố trừng ba, sóng yên gió lặng.
Lộc Trĩ thôn cư: Xóm Mũi Nai – vẻ đẹp bình yên, thơ mộng.
Lư Khê ngư bạc: Nét đẹp bình dị của xóm chài Rạch Vược, nơi con người và thiên nhiên hòa quyện, tạo nên một bức tranh yên bình và thơ mộng.
Thời gian trôi chảy, cảnh vật đổi thay, nhiều danh thắng trong Hà Tiên thập cảnh nay đã không còn nguyên vẹn. Kim Dữ lan đào, Giang Thành dạ cổ, Lư Khê ngư bạc, Nam Phố trừng ba đã biến mất, Tiêu Tự thần chung, Đông Hồ ấn nguyệt cũng phai mờ huyền diệu.
Lữ Phong luôn tự nhủ: “Hà Tiên, bao giờ mới đến?”. Rồi bỗng dưng, một ngày đẹp trời, y chợt nhận ra mình đang ở Hà Tiên. Chuyến đi ngẫu hứng ấy như một lời khẳng định, Lữ Phong đã bóc tem vùng đất mà y hằng mong ước bấy lâu.
Đến Hà Tiên lúc 9 giờ tối, Lữ Phong nhanh chóng tìm được nhà nghỉ gần chợ và lập tức thuê xe máy cho ngày hôm sau, sẵn sàng khám phá thành phố biển xinh đẹp này.
Thạch Động thôn vân: Đá nuốt mây
Lữ Phong cưỡi ngựa sắt lên núi Pháo Đài, đón bình minh trên Đông Hồ. Mây dày đặc che khuất bầu trời, nhưng khi mặt trời ló dạng giữa hai ngọn núi Tô Châu, một quả cam rực rỡ đã chín vàng, báo hiệu một ngày mới tràn đầy hy vọng.
Nạp năng lượng bằng bữa sáng và tách cà phê, Lữ Phong phóng xe, hướng đến hai danh thắng ngoại ô: Thạch Động và núi Đá Dựng.
Nằm cách trung tâm thành phố Hà Tiên 5km, Thạch Động là một ngọn núi đá vôi cô độc cao gần 100m. Nơi đây, Thạch Động thôn vân, một trong mười cảnh đẹp nổi tiếng Hà Tiên, ẩn chứa vẻ đẹp kỳ ảo. Những buổi sáng sớm, mây luồn qua cửa động, tạo nên khung cảnh mờ ảo, khiến du khách ngỡ như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.
Nằm ẩn mình trong khối núi nhỏ là hang động rộng lớn với nhiều cửa trổ ra. Nơi đây, ngôi chùa Thiên Sơn cổ kính được xây dựng từ lâu đời. Những nhũ đá trong Thạch Động tạo nên những hình thù kỳ lạ, gợi nhớ truyền thuyết Thạch Sanh huyền thoại.
Ra khỏi Thạch Động, pin máy ảnh của Lữ Phong còn đầy ắp, đủ sức “săn” ảnh cả ngàn tấm. Núi Đá Dựng tuy bé nhỏ, nhưng Lữ Phong vẫn quyết tâm khám phá kỹ lưỡng. Dẫu sao, với “kho” pin khổng lồ, chẳng sợ hết năng lượng. Chẳng ngờ, một bất ngờ ngoài sức tưởng tượng đang chờ đợi Lữ Phong phía trước.
Châu Nham lạc lộ: Cò về núi ngọc
Châu Nham, tức núi ngọc, được đặt tên bởi truyền thuyết về viên ngọc được tìm thấy trên núi Đá Dựng. Núi đá vôi cao gần 100m, hình dáng như một hình thang cân, nằm cách quốc lộ 80 gần 2,5km, sát đường biên giới với Campuchia. Nơi đây ẩn mình sau lối mòn nhỏ, khiến Lữ Phong, với sự chủ quan của mình, suýt lạc lối trong thắng cảnh kỳ tuyệt này.
Lữ Phong chỉ nghĩ trên núi có cái hang, cái cửa hang y đã nhìn thấy từ xa, cạnh cây thốt nốt. Bắt đầu leo lên con đường bậc thang, y vẫn chưa biết nó vòng quanh cả quả núi. Nhưng với Lữ Phong, một người hoạt động thể chất nhiều, ngọn núi này quá nhỏ bé, y chẳng lo lắng gì khi khám phá nó.
Đến cửa hang Mẹ Sanh, một hang sâu chứa đầy nhũ đá tuyệt đẹp, Lữ Phong chẳng băn khoăn gì. Chắc hẳn còn nhiều hang khác nữa, y nghĩ vậy. Y chụp ảnh cái hang này rất kỹ, cục pin máy ảnh chỉ còn một nửa (2 vạch) nhưng y vẫn tỉnh bơ.
Ra khỏi hang Mẹ Sanh, Lữ Phong thấy hầu hết du khách đi theo con đường bậc thang theo chiều ngược kim đồng hồ. Anh đoán con đường ấy dẫn tới cái hang lớn mà anh nhìn thấy từ xa, nên tò mò muốn thử đi theo chiều ngược lại, xem con đường đó dẫn đến đâu.
Vòng vèo qua núi, Lữ Phong bất ngờ phát hiện Hang Chỉ huy – một hang động nông nhưng cao thoáng. Núi nhỏ bé ấy ẩn chứa điều thú vị khiến y ngỡ ngàng. Tiếp tục hành trình, hang Thác Bạc hiện ra, nhỏ hẹp và sâu hun hút. Lo lắng vì pin máy ảnh chỉ còn 1 vạch, Lữ Phong chụp ảnh dè dặt, từng tấm một, chắc chắn không bỏ sót khoảnh khắc nào.
Uống nốt giọt nước cuối cùng, Lữ Phong hướng về cái hang to nhìn thấy từ xa. Con đường rẽ vào miệng hang, thay vì tiếp tục men theo sườn núi. Không nao núng, Lữ Phong bước thẳng vào con đường tối tăm, đi sâu vào lòng núi.
Cục pin cạn sạch sau vài tấm ảnh, Lữ Phong tiếc nuối. Lần đầu tiên rong ruổi, anh chụp hết một cục pin đầy mà vẫn chưa khám phá hết ngọn núi bé nhỏ này. Thất vọng và bối rối khi máy ảnh tắt ngúm, Lữ Phong đang chìm trong suy nghĩ thì giật mình bởi tiếng người ồn ào gần đó. Tim đập thình thịch, anh chợt nhớ ra: đó là đoàn khách anh gặp khi nãy đi ngược chiều.
Lữ Phong vội vã rút điện thoại trong túi quần ra. Aha, cái ông điện thoại này lần đầu tiên thấy được việc. Y chụp ảnh liên tục. Lên đến cửa hang, y mới biết đó là hai cái hang nối tiếp nhau: hang Xã Lộc Kỳ phía ngoài, và hang Cổng Trời phía trong, trổ ra sau núi.
Tiếp tục hành trình, Lữ Phong đến một cửa hang mang tên Trống Ngực, ẩn mình trên đỉnh núi Đá Dựng. Theo lời chỉ dẫn, anh vào hang, leo lên một bệ đá an toàn và vỗ thử vào ngực. Tiếng vọng từ các vách đá vang vọng như tiếng trống, mang đến một trải nghiệm độc đáo.
Lữ Phong chẳng buồn đếm số lượng hang nữa, danh thắng Châu Nham lạc lộ này khiến y hớ nặng. May còn chiếc điện thoại đầy pin, y chụp ảnh tạm cho đỡ tiếc nuối.
Hang Khổ Qua, dù tương đối nông và thoáng đãng, lại ẩn chứa những nhũ đá kỳ dị, lởm chởm trong lòng. Cuối hang, một khu vực bằng phẳng như tấm phản đá, tạo nên một không gian độc đáo.
Lữ Phong lách khỏi hang Khổ Qua, phía trước là Hang số 7. “Vậy là còn 6 hang nữa”, y thầm nghĩ, mệt mỏi. Cái núi bé tí hon này thật sự không đơn giản chút nào. Y đã đi qua biết bao nhiêu hang động ở phía sau, và giờ đây, Lữ Phong hối hận vì đã chủ quan khinh địch. Hôm nay, y đã phải trả giá đắt.
Lữ Phong tiến sâu vào hang Thần Kim Quy, gần đáy hang, một khối nhũ đá trắng to lớn chắn lối đi. Hình thù kỳ lạ của nó khiến Lữ Phong không khỏi liên tưởng đến mai rùa khổng lồ.
Qua hang Thần Kim Quy, Lữ Phong đến Hang số 5, nhỏ và nông, không mấy ấn tượng. Sau một hồi ngắm nhìn, y tiếp tục hành trình. Gặp ngã ba, đường trước mặt dẫn về điểm xuất phát, còn rẽ trái là đường xuống hang Biệt Động.
Lữ Phong quyết tâm khám phá hang Biệt Động, nơi được cho là quê nhà của chàng Thạch Sanh trong truyền thuyết. Hang không sâu, thoáng đãng và được trang trí thêm tượng Phật Di Lặc từ năm 2004, càng thêm phần linh thiêng và hấp dẫn.
Lữ Phong thở hổn hển, leo từng bậc thang lên ngã ba. Ánh mắt anh nhìn về phía núi Đá Dựng, khẽ nhủ thầm: “Xin lỗi, tao đã đánh giá thấp mày.”
Qua khỏi ngã ba, Lữ Phong phát hiện hang Bồng Lai – một hang hẹp, thấp nhưng mở rộng dần xuống bên dưới, trần hang cao vút. Tiếp tục hành trình, Lữ Phong tự cười mình: may mà hôm nay hứng chí đi ngược đường, nếu không, biết đâu qua hang Mẹ Sanh, đi theo hướng mọi người thì đã gặp cái hang cao cao kia rồi, coi như đã chinh phục hết mê động kỳ diệu này.
Lữ Phong bước từng bước, suy nghĩ miên man. Con đường dẫn đến hõm đá cao nhưng nông, nơi tấm bia Tổ quốc ghi danh các liệt sĩ. Hang sâu hút bên cạnh bia, như một Cổng Trời thu nhỏ, mở ra hành lang đá xuyên qua núi. Khi Lữ Phong bước ra khỏi hang, không gian rộng lớn hiện ra trước mắt, chính là nơi anh mong chờ từ lâu.
Vòm hang cao nhọn, thoáng đãng, là nơi tôn nghiêm của tượng Thế Âm Bồ Tát uy nghi dưới cội lá bồ đề. Phía sau tượng Bồ Tát, một miệng hang nhỏ ẩn hiện, đó là Hang Dơi. Những bộ rễ cây đa bên ngoài rủ lòa xòa xuống góc cửa hang, tạo nên một khung cảnh kỳ bí.
Lữ Phong rời khỏi núi Pháo Đài ở nội thành, hành trình không ngừng nghỉ, bữa trưa cũng bị lãng quên trong nhịp độ gấp gáp của ngày hôm đó.
Bình San: Di sản dòng họ Mạc
Nghỉ ngơi đôi chút, Lữ Phong cưỡi con lừa sắt về trung tâm Hà Tiên, thăm núi Bình San.
Bình San điệp thúy, danh thắng xưa kia được Mạc Thiên Tích xếp vào hàng mười cảnh đẹp, nay trở thành nơi yên nghỉ của dòng họ Mạc danh tiếng đất Hà Tiên. Khu lăng mộ uy nghi tọa lạc trên núi, còn đền thờ họ Mạc được xây dựng ngay dưới chân, như một lời tri ân và tưởng nhớ.
Dưới chân núi Bình San, trước đền thờ họ Mạc, hai hồ Bảo ngọc liên trì từng tỏa hương sen thơm ngát. Nay chỉ còn hồ đối diện đền giữ lại nét xưa, tương truyền do Mạc Cửu cho đào để cung cấp nước ngọt cho dân Hà Tiên. Lữ Phong buộc con lừa sắt vào gốc cây bên hồ, rồi bước vào viếng đền Trung Nghĩa từ. Sau khi viếng đền, anh theo lối đi hông, men sườn núi lên khu lăng mộ họ Mạc ngay cạnh.
Núi Bình San xanh mướt, xứng danh “Bình San điệp thúy”, là nơi an nghỉ của dòng họ Mạc. Khu lăng mộ nằm trên sườn núi, gồm 60 ngôi mộ, trong đó mộ Khai trấn Quốc công Mạc Cửu, vị khai hoang lập nên đất Hà Tiên, tọa lạc ở vị trí cao nhất, thẳng theo trục chính của khu lăng từ chân núi lên.
Phía trái mộ Mạc Cửu, ở vị trí thấp hơn, là mộ của Tổng binh Đại đô đốc Mạc Thiên Tích – con trưởng của Khai trấn Quốc công Mạc Cửu. Mộ của Mạc Thiên Tích là ngôi mộ số 2 trong khu lăng mộ.
Phù Dung cổ tự & Sắc tứ Tam Bảo tự
Nằm cạnh khu vực núi Bình San, chùa Tam Bảo – nơi từng được nhắc đến trong “Tiêu tự thần chung” – một trong Hà Tiên thập cảnh, nay đã được xây dựng lại vào năm 1930 sau nhiều biến động thời gian và chiến tranh. Dù chất cổ kính đã phai nhạt, Lữ Phong vẫn quyết định ghé thăm chùa Phù Dung gần đó thay vì dừng chân ở chùa Tam Bảo, nơi từng là chùa Tiêu ngày xưa.
Phù Dung cổ tự được xây dựng vào năm 1846 trên nền cũ của Tao đàn Chiêu Anh Các. Ngôi cổ tự ban đầu, được xây dựng trước đó, đã bị quân Xiêm phá hủy trong cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi (1833-1834).
Nằm không xa chùa Phù Dung là chùa Tam Bảo, một ngôi chùa cổ được ban sắc tứ của triều Nguyễn ở Hà Tiên. Theo sử sách, chùa được Mạc Cửu cho xây dựng để mẹ ông tu hành. Bà từ Trung Hoa sang Hà Tiên với Mạc Cửu khi đã ở tuổi 80, bởi nỗi nhớ con. Tuy nhiên, chùa bị phá hủy trong giai đoạn chiến tranh với Xiêm La. Sau khi lên ngôi (1802), vua Gia Long lệnh xây lại chùa vào khoảng năm 1811 và ban sắc phong. Từ đó, chùa mang tên Sắc tứ Tam Bảo tự.
Vẻ đẹp Đông Hồ ấn nguyệt
Đông Hồ, nơi sông Giang Thành phình ra khi gặp kênh Rạch Giá – Hà Tiên trước khi đổ ra biển, mang vẻ đẹp thanh bình của vùng quê. Hai ngọn núi Tô Châu vẫn hiên ngang soi bóng hồ nước, nhưng sự phát triển đô thị ngày càng khiến những nét thôn dã xưa cũ dần bị phai nhạt.
Dù bao lời đồn về sự mai một của Đông Hồ ấn nguyệt, Lữ Phong vẫn tin rằng vẻ đẹp nơi đây chưa hề phai nhạt. Chỉ cần một buổi chiều bình thường, ngồi hóng gió, nhìn ráng mây chiều nhuộm tím phía xa, lòng anh đã cảm nhận được sự lung linh huyền ảo ẩn chứa trong từng khoảnh khắc của Đông Hồ.
Hoàng hôn biển, Lộc Trĩ thôn cư.
Lộc Trĩ thôn cư – nét đẹp yên bình của xóm Mũi Nai (Hà Tiên) – may mắn vẫn còn giữ được đến nay, khác hẳn Lư Khê ngư bạc – thắng cảnh từng đi đôi với nó, nay đã không còn.
Mũi Nai (Lộc Trĩ) ở Hà Tiên là một mỏm núi nhô ra biển, từ ngoài nhìn vào, hình dáng giống như đầu nai nằm hếch mõm về phía biển, tạo nên cái tên độc đáo này.
Mặt trời vẫn chưa vội lặn dù đã 6 giờ 30 chiều. Lữ Phong tấp xe vào lề đường, ngồi trên bờ kè chắn sóng, lặng lẽ dõi theo ánh nắng cuối ngày nhuộm đỏ biển Tây. Nơi đây, mặt trời lặn xuống biển, một khung cảnh độc đáo ngược với phần lớn bờ biển Việt Nam.
Lữ Phong trở về trung tâm thành phố khi mặt trời đã lặn hẳn, dẫn con lừa cũ kỹ đi trả. Y định ta thán về sự ì ạch của nó, nhưng rồi lại thôi. Con lừa đã chở y suốt ngày, chẳng kêu ca lấy một tiếng.
Y thong dong dạo bộ đến khu chợ đêm, thưởng thức tô bún cá nóng hổi bên bờ biển. Trở lại núi Pháo Đài, Y nhâm nhi tách café muộn, ngắm nhìn cầu Tô Châu lung linh sắc màu. Khi màn đêm buông xuống, xe trung chuyển đưa Y về bến xe Hà Tiên, bắt chuyến xe cuối cùng trở về Sài Gòn.
Lữ Phong nhắm mắt, thầm thì: “Hà Tiên, chờ nhé. Sẽ còn quay lại nhiều”.