Chùa Bà Đanh, Hà Nam, nổi tiếng với sự thanh tịnh và cổ kính, thu hút du khách bởi không gian linh thiêng bên dòng sông Đáy. Hãy đến và trải nghiệm!
Hà Nam nổi tiếng với chùa Địa Tạng Phi Lai, đan viện Châu Sơn, nhà Bá Kiến trong Chí Phèo… Nhưng ẩn mình giữa khung cảnh thanh bình, ít người biết đến, chùa Bà Đanh lại toát lên vẻ cổ kính, linh thiêng. Nơi đây, dù vắng vẻ nhưng vẫn thu hút du khách bởi sự bình yên, thanh tịnh.
Chùa Bà Đanh ở đâu?
Chùa Bà Đanh (Bảo Sơn Tự) tọa lạc tại thôn Đanh Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Ngôi chùa cổ kính và đẹp này là danh thắng nổi tiếng của Kim Bảng, được xem là một trong những ngôi chùa đẹp nhất của Hà Nam.
Ngôi chùa được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1994.
Con đường Trần Hưng Đạo dẫn lối đến chùa.
Từ thành phố Phủ Lý, bạn đi theo quốc lộ 21B về thị trấn Quế, rẽ vào đường Trần Hưng Đạo tại ngã tư Bưu điện Kim Bảng. Đi khoảng 2km là đến chùa Bà Đanh. Ngoài ra, bạn có thể đi theo lối cầu Treo Cấm Sơn để đến chùa.
Lịch sử chùa Bà Đanh
Chùa được xây dựng lần đầu tiên vào thế kỷ thứ VII với kiến trúc đơn sơ bằng tranh tre, nứa lá. Đến năm Vĩnh Trị, đời Lê Hy Tông (1675-1705), chùa được trùng tu khang trang hơn.
Ban đầu, đền thờ thần Pháp Vũ. Đến thời Hậu Lê, dân làng rước tượng Phật vào đền và dựng thành chùa.
Chùa Bà Đanh – Kim Bảng, Hà Nam
Huyền tích về gốc tích ngôi chùa Bà Đanh thật ly kỳ. Truyền thuyết kể rằng, xưa kia, vùng Đanh Xá hứng chịu thiên tai lũ lụt, mất mùa triền miên. Một vị thần nhân đã báo mộng cho một già làng, chỉ dẫn xây dựng ngôi chùa thờ Ngài để ban ân lộc, giúp dân trừ lũ lụt, đem lại mưa gió thuận hoà, mùa màng bội thu. Người dân nghe theo, khai phá và xây dựng ngôi chùa. Thần nhân đó là một vị thần nữ, nên gọi là chùa Bà, kết hợp với tên địa danh là làng Đanh, tạo nên cái tên “chùa Bà Đanh” – cái tên mang ý nghĩa ba yếu tố: tiền Phật hậu Thánh và địa danh nơi ngôi chùa tọa lạc. Đây cũng chính là tên gọi Nôm của ngôi chùa và là cái tên quen thuộc với người dân địa phương và du khách.
“Vắng như chùa Bà Đanh”
Câu tục ngữ “vắng như chùa Bà Đanh” đã trở nên quen thuộc, gắn liền với hình ảnh ngôi chùa Bà Đanh ở Kim Bảng, Hà Nam. Tuy nhiên, ít người biết rằng, Việt Nam còn có một ngôi chùa Bà Đanh khác ở Hà Nội. Điều này cho thấy sự phổ biến của câu tục ngữ không chỉ dựa trên một địa danh cụ thể, mà còn phản ánh một thực tế đời sống.
Sự vắng vẻ của chùa Bà Đanh ở Hà Nam luôn là đề tài bàn tán. Một số người tin rằng ngôi chùa linh thiêng, ai phạm lỗi sẽ bị trừng phạt nên ít người dám đến. Cũng có ý kiến cho rằng vị trí của chùa ngày xưa khó tiếp cận, xung quanh là rừng rậm hoang vu, muốn đến phải đi đò sang, khiến ít người lui tới.
Chùa yên tĩnh vào những ngày thường trong tuần, chỉ lác đác vài du khách ghé thăm.
Giáo sư Sử học Lê Văn Lan khẳng định chùa Bà Đanh ở Hà Nội là nơi khởi nguồn câu tục ngữ “vắng như chùa Bà Đanh”, dựa trên lịch sử hình thành và đặc điểm của hai ngôi chùa.
Nằm sâu trong ngõ nhỏ số 199 Thụy Khuê, quận Tây Hồ, chùa Bà Đanh (hay còn gọi là chùa Châu Lâm) là một trong số ít những ngôi chùa ở Hà Nội còn giữ được nét đặc trưng của chùa làng thuở xưa. Xây dựng từ năm 1497, ngôi chùa yên bình, ít người qua lại, mang vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc.
Sau cuộc viễn chinh phương Nam vào thế kỷ XV, vua Lê Thánh Tông đã đưa về Đại Việt nhiều người Chăm và cho họ lập cộng đồng ở phía Tây Bắc kinh thành Thăng Long. Nơi đây, người Chăm được phép xây dựng một ngôi chùa thờ các vị thần của mình, gọi là Châu Lâm Tự, hay chùa Bà Đanh.
Chùa Bà Đanh ban đầu tọa lạc tại đầu phố Thuỵ Khê, nay là trường Trung học phổ thông Chu Văn An. Đầu thế kỷ XX, chùa bị dời và nhập với chùa Phúc Long ở ngõ 199 phố Thụy Khuê.
Châu Lâm Tự, nơi dành riêng cho người Chăm phục vụ triều đình, vốn đã vắng vẻ. Thực trạng đó được Nguyễn Huy Lượng phản ánh trong “Tụng Tây Hồ phú” (1801) qua câu thơ “Cảnh Bà Ðanh hoa khép cửa chùa”, minh chứng cho sự suy tàn của ngôi chùa thời nhà thơ.
Triều đình phong kiến suy thoái, khiến nhiều người Chăm phải rời bỏ quê hương. Một số trở về, số khác hòa nhập với người Việt, lập gia đình và chuyển đi nơi khác. Chùa Châu Lâm vốn đã vắng lặng, nay càng thêm cô quạnh, không còn người Chăm đến thờ cúng, thực hiện nghi lễ.
Chùa Bà Đanh ở Hà Nam ngày nay đã không còn vắng vẻ như xưa. Dù lượng du khách đến thăm chùa vẫn khiêm tốn vào những ngày thường trong tuần so với các điểm du lịch khác ở Hà Nam, nhưng ngôi chùa đã được nhiều người biết đến, thu hút sự chú ý của du khách gần xa.
Chùa Bà Đanh: Cổ kính, thanh tịnh.
Nằm ngay cuối con đường Trần Hưng Đạo rộng rãi, phẳng lì, chùa Bà Đanh và núi Ngọc hiện ra với tấm bia đá ghi dòng chữ “Di tích lịch sử văn hóa”.
Bia đá báo hiệu bạn đã tới chùa
Khuôn viên chùa được thiết kế khang trang như một quảng trường, với vườn hoa và chỗ nghỉ chân, tạo nên không gian thoáng đãng và yên bình. Dòng sông Đáy hiền hòa chảy ngay trước chùa, tô điểm thêm vẻ đẹp thanh bình cho cảnh quan. Khu vực mới được xây dựng tách biệt, không làm ảnh hưởng đến cảnh quan tổng thể của chùa. Nơi đây không bị xô bồ bởi các hàng quán, mang đến cảm giác dễ chịu cho khách thập phương.
Khuôn viên phía ngoài chùa
Sau khi gửi xe và mua vé, bạn sẽ đi qua cổng chùa, nơi ngôi chùa cổ kính ẩn hiện sau tán cây xanh mát, chào đón du khách.
Khu vực gửi xe, nơi bạn bắt đầu cảm nhận nét cổ kính của ngôi chùa ẩn hiện sau những hàng cây cổ thụ.
Nằm giữa khung cảnh hữu tình, chùa Bà Đanh nổi bật với địa thế độc đáo. Ba mặt giáp sông, một mặt tựa lưng vào núi Ngọc, chùa sở hữu diện tích rộng lớn lên tới 10ha. Kiến trúc độc đáo hòa quyện cùng khu vườn xanh mát bao quanh, tạo nên một không gian thanh tịnh và yên bình. Những hàng cây cổ thụ rợp bóng, phủ kín không gian, mang đến bầu không khí trong lành, mát mẻ, xua tan mọi ưu phiền. Đây là món quà đầu tiên mà ngôi chùa dành tặng du khách gần xa. Khu vườn xanh mát không chỉ là lớp đệm giúp chùa tách biệt với khu dân cư, mà còn góp phần tô điểm thêm vẻ đẹp thanh tao, thanh khiết cho cảnh quan chùa.
Chùa nép mình trong một vườn xanh mát
Hoa phù dung rực rỡ tô điểm khuôn viên chùa, đẹp đến nao lòng.
Nằm ẩn mình sau khu vườn rộng là cổng tam quan uy nghi, mang đậm dấu ấn thời gian và kiến trúc đình chùa Bắc Bộ. Cổng tam quan, với ba gian hai tầng, nguy nga tráng lệ. Trên gác chuông, tiếng chuông ngân vang, báo hiệu thời khắc thiêng liêng. Dưới hệ thống cửa gỗ hoa văn đơn giản, là lối vào chốn linh thiêng. Cổng chính chỉ mở trong những dịp lễ hội, còn ngày thường, người dân xung quanh, ni sư và du khách thập phương sẽ vào chùa qua hai cổng phụ với mái ngói cong như hình bán nguyệt.
Cổng tam quan uy nghiêm
Cổng phụ vào chùa
Nằm hướng Nam, mặt tiền chùa cổ hướng ra sông Đáy thơ mộng, mang đến view thoáng đãng và yên bình. Dù một vài nhà dân đã hiện diện xung quanh, không khí nơi đây vẫn giữ được sự trầm lắng đặc trưng. Từ cầu treo Cấm Sơn, bạn có thể đi theo lối dẫn vào khu dân cư nhỏ, con đường này cũng sẽ đưa bạn đến chùa.
Cầu treo Cấm Sơn hiện ra uy nghi, ẩn hiện sau cổng tam quan cổ kính.
Con đường nhỏ dẫn vào khu dân cư yên tĩnh bên cạnh chùa.
Bước qua cổng phụ, không khí trở nên thanh tịnh đến lạ thường. Mọi thứ đều được chăm chút tỉ mỉ, từ vườn cây xanh mát đến khu vực nội vi. Cảm giác thanh bình, an nhiên lan tỏa khắp không gian, tạo nên sự liên kết hài hòa cho toàn bộ ngôi chùa.
Cổng phụ mở ra, khung cảnh trước mắt khiến tôi ngỡ ngàng.
Sự yên tĩnh bao trùm, mọi thứ chìm vào tĩnh lặng.
Trong những ngày thường, ngôi chùa vắng vẻ, du khách thưa thớt. Không gian yên tĩnh, trang nghiêm như một tấm lụa mềm, bao phủ lên mọi ngóc ngách. Nơi đây, bước chân trở nên nhẹ nhàng, lời nói khẽ khàng, như một lời tôn trọng đối với sự thanh tịnh của chốn linh thiêng.
Chùa Bà Đanh, kết quả của nhiều lần xây dựng và trùng tu từ thế kỷ 19, là quần thể kiến trúc liên hoàn gồm 14 gian cùng các công trình phụ trợ như Tam quan, nhà Bái Đường, nhà Trung đường, nhà Thượng đường, nhà Tổ, Phủ mẫu, nhà khách. Nổi bật là nhà Bái Đường với 5 gian lợp ngói nam, trên nóc uy nghi là hai con rồng chầu mặt nguyệt. Các vì kèo và xà của khu nhà bái đường được chạm khắc tinh xảo, thể hiện tài hoa của người xưa.
Nhà Bái Đường
Bên trong Nhà Bái Đường
Chùa Bà Đanh, như nhiều ngôi chùa khác ở đồng bằng Bắc Bộ, thờ Phật, song cũng lưu giữ những nét văn hóa đặc sắc khác. Bên cạnh tượng Phật, chùa còn có tượng của Đạo giáo như Nam Tào, Bắc Đẩu, Thái Thượng Lão Quân, và những tượng của tín ngưỡng Tứ Phủ, Tứ Pháp – một tín ngưỡng thờ thiên nhiên gắn bó mật thiết với đời sống nông nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, chùa còn sở hữu pho tượng Pháp Vũ cổ, quý giá và nổi tiếng.
Những bức tượng cổ kính uy nghi trấn giữ cổng tam quan.
Mặt trong của cổng tam quan
Chuông chùa
Kiến trúc chùa mang phong cách đặc trưng của đình chùa Bắc Bộ, tạo nên nét đẹp cổ kính và uy nghi.
Pho tượng Pháp Vũ, ẩn chứa linh khí và bí ẩn, được thờ phụng trong cung cấm suốt hàng nghìn năm. Chỉ trong những ngày lễ hội chùa và dịp đặc biệt, người dân mới được phép đặt chân vào cung cấm để dâng hương, chiêm bái và cầu khấn, thể hiện sự tôn kính và mong ước an lành.
Lễ hội chùa Bà Đanh, diễn ra vào tháng 2 âm lịch, là dịp để người dân tri ân thần Pháp Vũ, cảm tạ ơn đức các vị thần phật và cầu mong một năm bình an, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Ngoài các nghi lễ trang nghiêm như rước nước, rước kiệu Đức Bà, lễ hội còn thu hút du khách với các trò chơi dân gian sôi động: chọi gà, kéo co, đua thuyền, cờ tướng, diễn chèo cổ và hát dân ca. Lễ hội chùa Bà Đanh đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào tháng 01 năm 2019, khẳng định giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của lễ hội.
Sau khi hành lễ tại chùa, bạn có thể dành thời gian khám phá núi Ngọc, tọa lạc ngay trong khuôn viên. Núi Ngọc không quá hiểm trở, với những khối đá và cây cối tạo nên khung cảnh độc đáo. Leo lên đỉnh núi, bạn sẽ tìm thấy sự tĩnh lặng, tách biệt khỏi cuộc sống ồn ào, là cơ hội để chữa lành và nạp lại năng lượng.
Núi Ngọc soi bóng, dòng Đáy hiền hòa.
Đền thờ cạnh Núi Ngọc
Chùa Bà Đanh, với kiến trúc cổ kính, phong cảnh hữu tình như một bức tranh sơn thủy và sự linh thiêng của chốn danh sơn cổ tự, giờ đây thu hút đông đảo du khách. Nơi đây trở thành chốn thanh tịnh, giúp du khách tạm quên đi những lo toan thường nhật, tìm về sự bình yên trong tâm hồn.
Tác giả: Nguyễn Văn Huỳnh